Đã trải qua 10 ngày liên tục ăn chay, không phải là chay trường vì có ăn trứng và sữa,
Đã trải qua 10 ngày liên tục chỉ ăn một bữa.
Vẫn chưa thoát khỏi cảm giác bụng đói.
Trong suốt 10 ngày qua, không dám mua thức ăn để sẵn trong tủ lạnh để sáng ra lấy ăn. Nên sáng nào cũng mua đồ ăn vừa đủ ăn một bữa, ăn xong là tuyệt không ghé siêu thị trong cả ngày.
Vì nghĩ là nếu có sẵn thức ăn trong tủ lạnh thì sẽ dễ dàng bị cám dỗ và phá vỡ cam kết với chính mình.
Nhưng bây giờ đã mua đồ ăn để trong tủ lạnh và đã vượt qua được chính mình, mặc dù vẫn có cảm giác đói lúc buổi tối.
8 giờ: ăn mấy thứ này
18 giờ: cân thử: 63kg, vậy là đã giảm 2 kg so với lúc chưa thực hiện ăn một bữa một ngày.
20 giờ: uống 1 chén rượu, thấy nóng bừng, có lẽ vì đói bụng mà uống rượu chăng?
Nghe câu đó máu nó sôi lên, với cái tâm bản ngã, thấy là mình muốn mặc kệ vợ con từ giây phút đó.
Ngay sau đó thực tập quán vô thường.
Thở vào, nhận biết mình thở vào, quán rằng mình đã 50 tuổi, 50 năm nữa cái thân này sẽ hoại thành cát bụi, vậy cáu giận để làm gì lãng phí thời gian, hãy yêu thương vợ con, vợ con mà không yêu thương thì còn yêu thương được ai.
Thở ra, nhận biết mình thở ra.
Làm vài hơi thở như vậy, thấy tình yêu thương vợ con quay trở lại thiết tha.
Ăn chay trường – Làm sao để có đủ dinh dưỡng cần thiết
Ăn chay trường là gì?
Những người theo chế độ ăn chay trường tránh ăn tất cả các sản phẩm từ động vật, bao gồm thịt, trứng và sữa. Họ cũng không ăn thức ăn có nguồn gốc động vật như gelatin và mật ong. Những người ăn chay trường phải chú ý tới những thành phần ghi chú trên bao bì thực phẩm như:
Carmin/cochineal: Một chất tạo màu thực phẩm từ bọ cánh cứng nghiền nát.
Shellac: Một loại men làm từ bọ cánh cứng, thường có trong các loại kẹo cứng bóng và kẹo rắc.
Casein: Một sản phẩm từ sữa thường có trong các loại đồ uống protein.
Whey: Một sản phẩm từ sữa thường được sử dụng như phụ gia trong rất nhiều đồ ăn.
Tại sao nhiều người quyết định ăn chay trường?
Với nhiều người, ăn chay có ý nghĩa hơn là những lựa chọn thực phẩm đơn thuần. Đó là một cách sống. Những người theo chế độ ăn chay trường thường được truyền cảm hứng bởi mong muốn cải thiện sức khỏe, bảo vệ môi trường và bảo vệ động vật. Những người ăn chay nghiêm ngặt không sử dụng sản phẩm có nguồn gốc động vật như đồ da, lụa hoặc một số loại mỹ phẩm và xà phòng nhất định.
Ăn chay trường có những ích lợi gì?
Người ăn chay trường tránh được rất nhiều chất không có lợi cho sức khỏe thường có trong các sản phẩm từ động vật như cholesterol và chất béo bão hòa. Họ cũng có xu hướng thu nạp nhiều dưỡng chất quan trọng từ trái cây, rau và ngũ cốc. Việc lựa chọn đồ ăn chay có thể làm giải nguy cơ cao huyết áp, tiểu đường nhóm 2, mộ số loại ung thư và bệnh tim. Những người mắc bệnh tiểu đường nhóm 2 cũng có phản ứng insulin và độ kiểm soát đường huyết được cải thiện. Người ăn chay tường có trọng lượng cơ thể hợp lý hơn, nhờ đó có thể cải thiện sức khỏe nói chung. Chế độ ăn chay được kế hoạch tốt khiến nhiều người cảm giác hài lòng với việc theo đuổi đức tin và tận hưởng cuộc sống lâu dài, khỏe mạnh hơn.
Ăn chay có những thách thức gì?
Một chế độ ăn chay khỏe mạnh cần chú trọng nhiều tới việc cân bằng ăn uống. Cả khi bạn đã ăn bổ sung lượng rau và hoa quả, bạn vẫn có nguy cơ không có đủ các loại vitamin và khoáng chất có trong các sản phẩm từ động vật. Bạn có thể tránh những vấn đề về dinh dưỡng và tận hưởng những lợi ích cho sức khỏe mà ăn chay mạng lại bằng cách lên kế hoạch cho chế độ ăn thật cẩn thận để có đủ các chất dinh dưỡng sau:
Sắt đóng một vai trò quan trọng trong việc sản xuất tế bào hồng cầu, giúp vận chuyển oxy tới các bộ phận trong cơ thể. Nguồn sắt từ thực phẩm không phải từ động vật bao gồm các loại đậu, bông cải xanh, nho khô, lúa mì và đậu phụ. Ngoài ra, hãy sử dụng các loại ngũ cốc tăng cường chất sắt. Bởi vì sắt từ thực vật không được hấp thụ dễ dàng như sắt từ thịt, cần kết hợp cùng vitamin C phong phú từ các loại thực phẩm để giúp cơ thể bạn hấp thụ sắt tốt hơn. Các nguồn thực phẩm giàu vitamin C bao gồm cam, ổi, dâu tây, bông cải xanh và súp lơ.
Canxi giúp cho xương chắc khỏe và giúp ngăn ngừa loãng xương. Đối với chế độ ăn chay trường, nguồn cung cấp canxi bao gồm đậu nành, hạnh nhân hoặc rau lá xanh đậm như cải xoăn, rau cải rổ và cải bó xôi. Sữa đậu nành tăng cường, nước trái cây và canxi bổ sung cũng là những nguồn canxi được lựa chọn.
Protein giữ cho da, xương, cơ và các bộ phận trong cơ thể được khỏe mạnh. Axit amin là đơn vị cấu trúc cơ bản của protein, cơ thể cần chúng để tiêu hóa thức ăn. Các axit amin thiết yếu là axit amin mà cơ thể không thể tự tổng hợp được và chỉ có được từ thực phẩm. Người ăn chay cần ăn nhiều loại protein thực vật mỗi ngày để có đủ các axit amin thiết yếu. Các lựa chọn protein cho người ăn chay bao gồm các loại hạt, các loại đậu, đậu phụ, sữa đậu nành, bơ đậu phộng, ngũ cốc.
Vitamin D đóng một vai trò quan trọng trong sức khỏe của xương. Nó giúp cơ thể chúng ta có thể hấp thụ canxi. Cơ thể có thể tự sản sinh vitamin D khi tiếp xúc với ánh mặt trời. Tùy thuộc vào nơi bạn ở, 10 phút phơi nắng hè, thực hiện 3 tới 4 lần 1 tuần là đủ để cơ thể bạn sản xuất đủ lượng vitamin D cần thiết. Tuy nhiên, nếu bạn cần bổ sung thêm dưỡng chất này thì các sản phẩm tăng cường như sữa đậu nành, sữa gạo và các loại ngũ cốc là những nguồn vitamin D rất tốt.
Vitamin B12 giúp sản xuất tế bào hồng cầu và ngăn ngừa bệnh thiếu máu. Người ăn chay khó có đủ vitamin B12 hơn do nó chủ yếu được tìm thấy ở cá, sò, thịt và các sản phẩm từ sữa. Nếu bạn là một người ăn chay trường, hãy sử dụng những ngũ cốc, sữa đậu nành và các sản phẩm ăn chay bổ sung vitamin B12. Ngoài ra, xem xét sử dụng vitamin bổ sung để tránh thiếu hụt.
Kẽm là dưỡng chất quan trọng đối với hệ thống miễn dịch. Kẽm có thể được tìm thấy trong các loại đậu, các loại hạt và các sản phẩm đậu nành.
Axit béo omega-3 giúp cải thiện sức khỏe tim mạch và các chức năng não. Hạt lanh và dầu hạt lanh là nguồn cung cấp axit béo omega-3 rất tốt. Bạn cũng nên tìm kiếm các thực phẩm tăng cường omega 3 từ các nguồn thực vật. Nếu bạn sử dụng sản phẩm bổ sung omega 3, hãy kiểm tra cẩn thận để chắc chắn omega 3 đó không được tổng hợp từ dầu cá.
Là một người ăn chay trường, bạn có thể theo đuổi một cuộc sống với sức khỏe tốt bằng cách lựa chọn thực phẩm một cách cân bằng. Hãy để ý tới những dấu hiệu của các vấn đề về dinh dưỡng như thay đổi về tóc, da và cân nặng. Hãy nói chuyện với bác sĩ để họ nắm được chế độ ăn của bạn và giúp bạn có những lựa chọn dinh dưỡng tốt hơn cho sức khỏe.
Nội dung này được phát triển với sự hỗ trợ bảo lãnh từ Nature Made®.
(Đây là kể câu chuyện của mình với bạn bè cho vui thôi, không có tuyên truyền cho ai "Học tập, làm theo" nhé!)
Mạc Văn Trang
Chuyện nhịn ăn 7 ngày, Kim Chi đã thực hiện nhiều lần để chữa bệnh. Đặc biệt có lần nhịn 13 ngày liền để chữa khỏi cánh tay sưng to, mà mấy bệnh viện Đông, Tây y chẩn, trị suốt 2 năm không thành công. Lâu nay cứ 6 tháng KC lại nhịn 7 ngày, bảo để “reset" lại các cơ quan trong cơ thể và chữa những bệnh đang tiềm ẩn… Mình đã chứng kiến, theo dõi cả ghi hình mọi hoạt động của KC trong những lần nhịn ăn trước đây và thấy lạ: Mọi hoạt động vẫn diễn ra bình thường, vẫn tươi tỉnh, vui vẻ, kể cả đi chợ nấu ăn, dọn bữa cho chồng và ngồi xem chồng ăn… Sau nhịn ăn thấy giảm cân nhẹ nhõm, tươi, khoẻ hơn. Thấy ích lợi và tin tưởng, lần này mình cũng “đồng hành" xem sao. Thế là hai vợ chồng nhất trí.
Ngày 15/4/2021, bàn nhau thống nhất nhịn ăn từ ngày 16 đến 22/4. Từ chối bạn mời đi picnic; từ chối mấy bạn trẻ bảo đến thăm. Vì đến chơi là KC lại mời dùng bữa, dù đơn sơ, để chuyện trò cho thêm tình cảm...
Đi mua thuốc xổ. Tối ăn nhẹ và 20 giờ uống thuốc xổ (sáng hôm sau xổ cho sạch ruột).
Ngày 16/4/ bắt đầu nhịn ăn. Sáng ngủ dậy 4h30 vẫn tập mấy động tác trên giường, vệ sinh cá nhân...
“Luyện khí công" chừng 5-6 phút (thực ra là thở sâu, ép cho không khí vào đầy lục phủ ngũ tạng).
Rồi như mọi ngày, Kim Chi học tiếng Anh; mình làm việc với máy tính.
7h thì “ăn sáng" bằng một cốc nước chanh pha mật ong và tí muối, tí ớt (có âm, có dương) cho vừa uống (chừng 250 ml). Nước chanh được lọc kỹ để loại bỏ tép chanh và các tạp chất khác.
Sau đó mình tưới cây rồi vào bàn làm việc. KC lau nhà rồi làm việc như mọi ngày.
Tầm 9h như mọi khi là ăn bữa phụ với sữa chua, trái cây, nhưng hôm nay ra ngồi uống nước trắng, tán chuyện, rồi chơi cờ ca rô, lên “phây"...
11h lại “luyện khí công" (không biết ngoài việc nhồi không khí đầy bụng, còn tác dụng gì nữa không biết?) để chuẩn bị “ăn trưa".
11h30: “ăn trưa" với một ly nước như sáng. Có cảm giác thiếu đói một chút...
Trưa ngủ ngon.
Chiều làm việc bình thường.
16h30 đi bộ 30 phút và tập với dụng cụ thể dục của khu dân cư 30 phút. KC vẫn tập như mọi ngày. Còn mình tập nhẹ hơn, ít hơn, khối lượng chừng bằng ⅔ ngày thường…
Vẫn tắm gội như mọi ngày.
18h30 lại “Luyện khí công" và “ăn tối" như bữa sáng, trưa.
Xem thời sự. Rồi đọc sách...
KC đi ngồi ghế massage và nghe nhạc.
22h đi ngủ.
Ngủ ngon. Sướng nhất là ngủ một mạch đến hơn 4h sáng mới tỉnh dậy. Lần đầu tiên, bao nhiêu năm, mình không phải thức dậy đi tiểu đêm mấy lần…
Ngày 17/4: Mọi việc diễn ra y như ngày 16/4. Cơ thể có vẻ hơi “nhão" một tí chút, nhưng tinh thần rất thoải mái, không vướng bận vào chuyện ăn, nên làm việc hiệu quả hơn. Mình hoàn thành bài viết “SOI THUÝ HẠNH VÀO XÃ HỘI", post lên “phây" … Trưa có cảm giác hơi cồn cào và thèm ăn. Nhưng “luyện khí công" và uống ly nước chanh mật ong, xong lại ổn. Ngủ trưa ngon…
Ngày 18/4 diễn ra bình thường. Không thấy dấu hiệu mệt mỏi. Đặc biệt làm việc trí óc nhiều hơn, hiệu quả hơn, vì không vướng bận ăn uống… Dễ chịu hơn ngày nhịn thứ hai.
Ngày 19/4 mọi việc như bình thường.
Ngày 20/4: Sáng dậy cân ngay, thấy mình giảm được 3kg (78kg nay còn 75kg), KC giảm được 2 kg (61kg còn 59kg). Mọi việc diễn ra bình thường.
Ngày 21/4: Mọi việc như bình thường.
22/4 Ngày nhịn ăn thứ 7 diễn ra bình thường.
Mình hoàn thành bài viết: “CHUYỆN MỘT VIỆT CỘNG TRONG BV TÂM THẦN VNCH", sau khi trò chuyện với Thiều Thị Tân và đọc khá nhiều tư liệu...
23/4: Sáng dậy cân ngay: KC còn 58kg, giảm được 3kg; mình còn 73, 5kg, giảm 4,5kg. Thấy khoan khoái khỏe mạnh. Kết thúc 7 ngày nhịn ăn, thấy vui thích như mình đã vượt qua một thử thách nho nhỏ…
Ngày hôm nay sẽ ăn cháo và ngày mai thì ăn cơm “nặng” dần.
TÓM LẠI: Trước đây đến bữa mà ăn muộn là mình thấy cồn cào khó chịu rồi. Có khi tối ăn ít, đêm đói không ngủ được, phải dậy ăn chút gì đó mới ngủ tiếp … Nhưng lần này nhịn 7 ngày ngon lành và nếu nhịn thêm vài ngày, chắc cũng được. Đó là nhờ có NIỀM TIN và làm ĐÚNG PHƯƠNG PHÁP.
Tác dụng rõ nhất là giảm được cân, thấy người nhẹ nhõm hơn và sướng nhất là 7 đêm ngủ ngon một mạch, không phải thức dậy đi tiểu mấy lần nữa. Điều đặc biệt là vẫn làm mọi việc chân tay như mọi ngày, làm việc trí óc nhiều hơn, vì nhiều thời gian và tập trung hơn, viết được 2 bài “khó” và thú vị, thời gian đọc, viết, lên “phây" nhiều hơn. KC càng làm được nhiều việc hơn, vì không bận đi chợ, nấu ăn, rửa nồi xoong, bát đĩa…
Nhịn 7 ngày nhưng da dẻ vẫn hồng hào, mặt mũi tươi tỉnh như thường (chụp tấm hình sáng 23/4 kỷ niệm sau 7 ngày nhịn ăn, nom hai đứa vẫn tươi đấy chứ). Đặc biệt, mình không uống thuốc huyết áp (trong thời gian nhịn ăn không được uống bất kỳ thuốc gì) nhưng ngày nào cũng đo 2 lần thường chỉ 155/80 hay 150/80, lạ nhất là nhịp tim chỉ 55 đến 60, có lúc xuống 52 (bình thường phải uống ngày 2 viên Nifedipin 20 thì huyết áp thường 140/80, nhịp tim 70 -75, mấy lần tối quên uống, sáng hôm sau HA có thể 170 - 180/90).
Có người bảo nhịn ăn vậy là phản khoa học… Vâng, ai tin vậy thì chớ có dại mà làm thử. Còn bọn mình qua thực tế, thấy tốt, nên sẽ áp dụng 3 tháng nhịn 7 ngày: Vừa đỡ bận ăn uống, vừa tốt cho sức khoẻ, có thêm nhiều thời gian… Con gái Mai phương còn trêu, thế là bố mẹ tiết kiệm được cả tiền ăn nữa! - Ừ nhỉ, chừng 2 triệu đồng tiền ăn một tuần đó! Hi hi!...
Sau nhịn ăn thì ăn cháo 1 ngày, rồi ăn cơm bình thường, dùng các loại thuốc như trước (có thể điều chỉnh, chẳng hạn mình sẽ uống 1 viên nifedipin và nghe ngóng xem sao)....
Nhưng bạn nào muốn áp dụng thì cần thận trọng nhé: Phải có NIỀM TIN, phải học PHƯƠNG PHÁP và thực hiện cho ĐÚNG. KC còn bảo, Thầy (hướng dẫn KC 10 năm trước) dặn, phải tuyệt đối kiêng quan hệ nam nữ trong thời gian nhịn ăn và sau đó 7 ngày, kẻo sẽ bị “tẩu hỏa nhập ma"! Mình cũng không hiểu đó là khoa học hay cả tâm linh nữa?
Comme nous avions un travail considérable à terminer avant de franchir les Himalayas, le village d’Asmah nous parut le meilleur quartier général.
Le camarade que nous avions laissé à Potal pour observer Émile nous y rejoignit.Il rapporta qu’il avait parlé avec Émile jusque vers quatre heures de l’après-midi du jour où Émile devait nous recevoir à Asmah. Vers ce moment, Émile dit qu’il lui fallait aller au rendez-vous. Son corps devint aussitôt inerte, gisant comme endormi sur une couchette. Il resta dans cette position pendant trois heures environ, puis devint progressivement indistinct et disparut. C’était l’heure du soir où Émile nous recevait au logis d’Asmah.
Voici quelques temples de cette région.
Temple Gnana Saraswati
Le temple Gnana Saraswati, également connu sous le nom de temple de Basara, est situé sur les rives de la rivière Godavari, à Basar, dans le district d’Adilabad de Telangana. Il est situé à environ 148 km du siège du district et à 45 km de Nizamabad.
C’est l’un des deux temples les plus célèbres de la déesse Saraswati en Inde, l’autre étant situé dans l’état du Jammu-et-Cachemire. C’est un ancien temple dédié à la déesse Saraswati, la déesse hindoue de la connaissance et de l’apprentissage. C’est aussi la demeure de la déesse Laksmi et de la déesse Kali.
Histoire Du Temple
L’histoire du temple remonte à l’époque du Mahabharata, il y a près de 5000 ans. Selon une légende, Maharishi Vyasa, également connu sous le nom de Veda Vyasa, et ses disciples avec le sage Suka ont décidé de s’installer dans une atmosphère calme et apaisante après la fin de la guerre épique de Kurushetra. Par conséquent, il a voyagé du nord au sud et dans une quête pour trouver un endroit paisible, il est venu dans la forêt de Dandaka et s’y est installé. Il méditait très profondément tous les jours et à cause de sa méditation, cette région s’appelait aussi Tapobhoomi. Un jour, au cours de sa méditation, il a eu le rêve de la déesse Saraswati qui lui a dit de ramener une poignée de sable de la rivière Godavari après avoir eu un bain sacré chaque jour dans cette grotte et l’avoir gardée comme trois tas.
Après quelques jours, à cause de la vraie pénitence et du dévouement de Vedyasa, les trois divinités des trois tas sont apparues sous la forme de la déesse Saraswati, de la déesse Lakshmi et de la déesse Kali. Cette idole de sable a le visage marqué au curcuma et on dit que manger un peu de pâte de curcuma améliorera ses connaissances et sa perception. Étant donné que Maharishi Vyasa passait beaucoup de temps ici uniquement dans la prière, l’endroit porte son nom, Vasara, qui devint plus tard Basara ou Basar en raison de l’influence des gens parlant le marathi dans la région. Il est également dit que, selon Brahmanda Purana, le Maharishi Vyasa n’a écrit ici que le Mahabharata.
Vous pouvez voir l’idole du Maharshi en marbre et son Samadhi près du temple. On pense également qu’il s’agit d’un des trois temples construits par Ashtrakutas près du confluent des rivières Godavari et Manjira. Vous pouvez voir l’idole du Maharshi en marbre et son Samadhi près du temple. On pense également qu’il s’agit de l’un des trois temples construits par Ashtrakutas près du confluent des rivières Godavari et Manjira.
Construction Du Temple
Le temple a été construit par Maharshi Vyasa seulement (considéré comme un avatar de Vishnou. D’après le Mahābhārata, il est le fils de Satyavati, fille d’un passeur ou d’un pêcheur, et du sage errant Parashara. Il est né sur une île de la rivièreYamuna. Il est dit que c’est près de Kalpi dans la région Jalaun de l’Uttar Pradesh. Il était sombre de peau et fut nommé Krishna(noir) et Dvaipayana, signifiant né sur une île. L’enfant devint adulte aussitôt après sa naissance, adoptant une vie d’ascète, il devint rapidement l’un des plus grands rishis. Il est considéré comme un des huit Chiranjeevin (ayant longtemps vécu ou immortels, de même que le dieu Hanuman) qui sont toujours existant d’après les croyances hindoues.
Puis, au cours du VIe siècle, le roi Bijialudu, souverain de Nandagiri et dont la capitale est Nanded, rénova le temple. Du 11ème au 18ème siècle, Mughal Nawabs tenta de détruire les temples et les idoles de Basar. À l’époque, un jeune homme, Sri Makkaji Patel, qui appartenait à la dynastie Veershaiva de Renukapuram avec l’aide de locaux, s’est battu contre eux et a ainsi protégé le temple des invasions musulmanes.
La déité principale qui préside dans le temple est celle de la déesse Saraswati. Elle est assise avec son instrument Veena dans une main et est ornée de curcuma. À côté, se trouve le sanctuaire de la déesse Lakshmi et, à l’est de celui-ci, le sanctuaire de la déesse Kali. Ce temple n’a pas de magnifiques sculptures comme les autres temples de la région. Les dévots vont souvent à la montagne voisine qui porte l’idole de la déesse Saraswati au sommet du rocher. En raison de la présence de ces trois super déesses, Basar est appelée la demeure de la Sainte Trinité.
PotalMaharashtra 410201, Inde
La saison n’était pas assez avancée pour que nous entreprenions de franchir les cols. Je dis nous, les membres de notre petit détachement, qui en étions arrivés à nous considérer comme de simples entraves. Nos trois grands amis auraient pu franchir les étapes en bien moins de temps que nous, mais aucun d’eux ne se plaignait. C’est à dessein que je les appelle grands, car vraiment ils l’étaient par le caractère. Nous fîmes beaucoup d’excursions à partir d’Asmah, tantôt avec Jast, tantôt avec Neprow.
En chaque occasion, tous nous donnèrent la preuve de leurs remarquables qualités. L’une de ces excursions avait pour but un village où se trouvait un temple appelé Temple du Silence ; ou Temple Non Construit par des Mains. Ce village contient le temple et les maisons des desservants. Il est situé sur l’ancien emplacement d’un village presque entièrement ravagé par les épidémies et les fauves. Émile, Jast et Neprow nous accompagnaient et nous dirent qu’en visitant ce lieu, les Maîtres n’avaient plus trouvé que de rares survivants parmi les trois mille habitants. Ils les soignèrent, après quoi fauves et épidémies disparurent. Les quelques survivants firent le voeu, dans le cas où ils seraient épargnés, de devenir servants de Dieu et de le servir de la manière que Dieu aurait choisie. Les Maîtres s’en allèrent. Plus tard, à leur retour, ils trouvèrent le temple bâti et les desservants occupés à leurs fonctions.
Page 36
Ce temple est magnifique, situé sur une hauteur d’où l’on domine une vaste étendue de pays. Il est construit de pierres blanches et date de six mille ans.Jamais il n’a eu besoin de réparations. Si l’on fait sauter un éclat de l’un des moellons, il se répare tout seul. Nous en fîmes l’expérience. Émile dit : Voici le Temple du Silence, le Lieu du Pouvoir.
Silence étant synonyme de pouvoir quand nous atteignons le lieu du silence dans notre pensée, nous sommes à l’endroit du pouvoir, où tout n’est qu’unité, un seul pouvoir, Dieu : « Soyez silencieux et sachez que je suis Dieu. » Pouvoir dispersé égale bruit. Pouvoir concentré égale silence.Quand nous concentrons, quand nous ramenons nos forces à un centre d’énergie unique, nous prenons contact avec Dieu dans le silence. Nous sommes unis à lui, donc unis à tout pouvoir. Tel est l’héritage de l’homme. « Mon Père et moi nous ne faisons qu’un. » La seule manière d’être uni au pouvoir de Dieu, c’est d’entrer consciemment en contact avec Dieu. Cela ne peut se faire de l’extérieur, car Dieu émane de l’intérieur. « Le Seigneur est dans son saint temple. Que toute la terre fasse silence devant lui. » Détournons-nous de l’extérieur vers le silence intérieur. Sans cela, nous ne saurions espérer d’union consciente avec Dieu. Nous comprendrons que son pouvoir est à notre disposition, et nous nous en servirons constamment. Alors, nous saurons que nous sommes unis à son pouvoir et nous comprendrons l’humanité. L’homme renoncera aux illusions de son amour-propre, constatera son ignorance et sa petitesse, et sera enfin prêt à s’instruire. Il verra que l’on ne peut rien enseigner aux orgueilleux et que seuls les humbles d’esprit peuvent percevoir la Vérité. Ses pieds reposeront sur le roc, il ne trébuchera plus, il acquerra le sens de l’équilibre et de la décision. Au premier abord, il est peut-être malaisé de comprendre que Dieu est l’unique pouvoir, l’unique substance, l’unique intelligence. Mais à mesure que l’homme saisit la véritable nature de Dieu et l’extériorise activement, il prend l’habitude de se servir constamment de ce pouvoir, en mangeant, en courant, en respirant, en accomplissant les grandes tâches de sa vie. L’homme n’a pas appris à faire les oeuvres majeures de Dieu, faute d’avoir compris l’immensité du pouvoir de Dieu et de savoir que l’on peut se servir de ce pouvoir pour les oeuvres mineures.
Page 37, 38, 39
Dieu n’écoute ni notre flot de paroles ni nos clameurs bruyantes répétées en vain. Il faut le rechercher au moyen de notre Christ intérieur, la connexion invisible que nous possédons avec lui en nous-mêmes. Adoré en esprit et en vérité, il écoute l’appel de l’âme sincèrement ouverte à lui. Quiconque prend contact avec le père dans le secret constatera son pouvoir par la réalisation de tous ses désirs. Car le Père récompense publiquement quiconque le recherche dans le secret de l’âme et se tient là. Que de fois Jésus n’a-t-il pas fait allusion à ce contact individuel avec le Père. Il le maintenait perpétuellement et consciemment pour lui-même. Il parlait au Père comme à un interlocuteur présent. Quelle puissance cette relation intérieure secrète ne lui a-t-elle pas donnée. Il avait reconnu que Dieu ne parle pas dans le feu, la tempête, ou les tremblements de terre, mais au plus profond de nos âmes avec une petite voix tranquille. Cette notion donne l’équilibre mental. On apprend à aller jusqu’au bout d’une idée. D’anciennes idées disparaissent, de nouvelles s’adaptent. On découvre vite combien le système est simple et efficace. On prend l’habitude de rassembler tous les problèmes délicats pour les méditer pendant l’heure du silence. On ne les résoudra peut-être pas tous, mais on se familiarisera avec eux. Il ne sera plus nécessaire de se hâter et de lutter toute la journée avec le sentiment que le but échappe. Il n’est personne de plus étranger à l’homme que lui-même. S’il veut connaître cet étranger, qu’il rentre dans son cabinet de travail et ferme la porte. Il y trouvera son plus dangereux ennemi et y apprendra à le maîtriser. Il y trouvera aussi son véritable moi, son ami le plus fidèle, son maître le plus sage, son conseiller le plus sûr… encore lui-même. C’est l’autel où brûle la flamme éternelle de Dieu, la source de toute bonté, de toute force, de toute puissance. Il saura que Dieu réside au plus profond du silence. C’est là aussi, au fond de soi, que réside le Saint des Saints, où tout désir de l’homme existe dans la Pensée de Dieu et se confond donc avec un désir de Dieu. On y sent, on y connaît l’intimité des relations entre Dieu et l’homme, entre le Père et le Fils, entre l’esprit et le corps. Et l’on y voit que la dualité apparente n’existe que dans la conscience humaine, car, en réalité, il y a unité. Dieu remplit les cieux et la terre. Telle est la grande révélation qui vint à Jacob dans le silence. Il s’était endormi sur la pierre de la matérialité. Dans une éclatante illumination divine, il perçut que l’extérieur n’est quel’expression d’une image conçue intérieurement. Il en fut si impressionné qu’il s’écria : « Le Seigneur (la Loi) est certainement ici (dans la terre et le corps) et je ne le savais pas. Voici la Maison de Dieu et la porte du ciel. » À l’instar
de Jacob, les hommes comprendront que la porte des cieuxs’ouvre au travers de leur propre conscience. Avant de pouvoir entrer dans l’endroit secret et silencieux du Très-Haut, il faut que chacun de nous gravisse cette « échelle de conscience » révélée à Jacob dans une vision. Il faut découvrir que nous sommes au centre de toute créature, unis à toutes les choses visibles et invisibles, baignés dans l’omniprésence et issus d’elle. Dans sa vision, Jacob aperçut l’échelle joignant le ciel et la terre, avec des anges de Dieu qui y montaient et descendaient. Ce sont les idées de Dieu descendant du concept à la forme, et remontant ensuite au concept. La même révélation vint à Jésus quand « Les cieux lui furent ouverts » et lui dévoilèrent la magnifique loi de l’expression, selon laquelle les idées conçues dans la Pensée Divine en sortent pour se manifester dans des formes. Cette loi lui fut révélée avec une telle perfection qu’il aperçut aussitôt la possibilité de transformer, de changer toutes les formes en modifiant les états de conscience à leur égard. Il fut d’abord tenté de changer des formes de pierre en pain pour calmer sa faim personnelle. Mais, en même temps que la révélation, il reçut l’interprétation exacte de la loi de manifestation. Les pierres, comme d’ailleurs toutes les formes visibles, sont issues de la Substance de la Pensée Universelle, c’est-à-dire de Dieu. Elles sont les vraies expressions de sa Pensée. Toute chose désirée, mais encore dépourvue de forme, existe dans cette Substance Universelle qui est prête pour la création, prête à s’extérioriser pour satisfaire tout désir. La nécessité de pain servit à démontrer que la matière constituante du pain est à portée de la main et disponible en quantités illimitées. Cette matière, ou essence de toutes choses, peut se transformer en pain ou en pierres. Quand l’homme désire le bien, son désir est celui de Dieu. La Substance Universelle qui nous entoure contient donc une source intarissable de ce qui est nécessaire pour satisfaire tout bon désir. Il nous suffit d’apprendre à nous servir de ce que Dieu a créé à l’avance pour nous. Il souhaite que nous nous en servions pour échapper aux limitations et devenir « abondamment libres ».
Quand Jésus disait. « Je suis la porte », il voulait dire que « JE SUIS » dans chaque âme est la porte par laquelle Dieu, le grand « JE SUIS », exprime sa vie, son pouvoir, et sa substance à travers l’individu. « JE SUIS » s’exprime sur un mode unique en quatre stades : le concept, la pensée, la parole, et l’acte. Ce pouvoir, cette substance, cette intelligence, L’ÉTERNEL sont modelés par la conscience. C’est pourquoi le Maître a dit. « Qu’il en soit fait selon votre foi. » Et aussi : « Tout est possible à celui qui croit. »
Dieu est donc dans l’âme en tant que pouvoir, substance, intelligence. Parallèlement, il est dans l’esprit en tant que sagesse, amour, et vérité. Nous avons vu que Dieu prend forme par la conscience. La conscience, c’est l’homme. Elle baigne dans la pensée infinie de Dieu. Elle découle du concept, de la croyance, qui existe dans la pensée. C’est la croyance à la séparation d’avec l’Esprit qui provoque la vieillesse et la mort corporelle. Sachez que l’Esprit est tout et que la forme est continuellement issue de l’Esprit. Vous comprendrez alors que ce qui est né d’esprit est esprit.
La conscience nous révèle une deuxième grande vérité : chaque individu étant un concept de la Pensée divine est maintenu dans cette pensée comme une idée parfaite. Nul ne se conçoit lui-même. Nous avons tous été parfaitement conçus. Nous restons toujours des créatures parfaites dans la pensée parfaite de Dieu.
Quand cette idée s’empare de notre conscience, nous prenons contact avec la Pensée divine et nous pouvons concevoir nous-même ce que Dieu a déjà conçu pour nous. C’est ce que Jésus appelait la nouvelle naissance. Tel est le grand don que nous offre le Silence. Notre contact avec la Pensée de Dieu nous permet de penser par elle et de nous connaître tels que nous sommes en réalité. L’homme prend contact avec la Pensée de Dieu par la vraie méditation, et en forme alors une expression véritable. Actuellement, par nos croyances fausses, nous en avons formé une expression fausse. Mais, que la forme soit parfaite ou imparfaite, l’Être de la forme reste le pouvoir, la substance, et l’intelligence parfaite de Dieu. Il ne s’agit pas de changer l’Être de la forme, mais la forme donnée à l’Être : Pour cela, il faut renouveler notre pensée, transformer le concept imparfait en concept parfait, changer la pensée d’homme en pensée de Dieu.
Il y a donc un intérêt majeur à trouver Dieu, à prendre contact avec lui, à s’unir à lui, à l’extérioriser en expression.